LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ
Người
Việt ta từ ngàn
năm xưa đã có
chữ viết riêng.
Chữ Việt cổ là
loại chữ tượng
thanh, ghép
những chữ cái
thành từ. Chữ
Việt có trước
cả chữ Hán hàng
ngàn năm và hoàn
toàn khác chữ
Hán. Các nhà
nghiên cứu ngôn
ngữ học Việt nam
đã có những khám
phá và còn tiếp
tục truy tìm.
Cùng với các
nghiên cứu của
nhiều nhà ngôn
ngữ học Pháp,
Anh, Mỹ, Tiệp và
nhất là Trung
Hoa (Lục Lưu,
Hứa Thân, Trịnh
Tiểu) đều khẳng
định người Việt
đã có chữ viết
riêng từ trước
kỷ Công nguyên
(BC).
Bộ
chữ này lưu lại
trong nền văn
hóa tiền Việt –
Mường. Trên các
mặt Trống Đồng
và nhiều di vật
cổ xưa khác đã
được khai quật ở
Bắc bộ, Bắc
Trung bộ và rải
rác ở vùng cực
bắc biên giới
Việt Nam, đều có
một dạng ký hiệu
giống nhau,
những hình con
nòng nọc là
những tự dạng,
biểu tượng để
ghi chép lại
những âm thanh
cấu thành từ
ngữ. Đó chính là
chữ Việt cổ, bộ
chữ Việt cổ ấy
dùng để ghi
tiếng nói của
người Việt từ
ngàn xưa.
Trống
đồng Đông Sơn
tại Bảo tàng
Guimet, Paris,
Pháp
Tổ tiên chúng ta đã từng phải sống qua một quá trình đô hộ lâu dài của Trung Hoa, với âm mưu hủy diệt nền văn hóa Việt Nam chúng đã bắt dân ta dùng chữ Hán để bức tử, tuyệt diệt với chữ Việt cổ, với mục đích đồng hoá dân tộc. Chữ viết tiếng Việt (bộ chữ Khoa đẩu) thời bấy giờ là đối tượng bị Trung Hoa hủy diệt trước nhất, bởi nó phản ánh tư tưởng, linh hồn, văn hóa của dân tộc Việt.
Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng kêu gọi toàn dân đứng lên chống Tàu được viết bằng chữ Khoa đẩu, chữ Việt cổ.
Trong sách Hậu Hán thư (後漢書), quyển 14 ghi: "Dân Giao Chỉ có linh vật là trống đồng, nghe đánh lên họ rất hăng lúc lâm trận.... "
Sách này còn viết rằng: "Mã Viện sau khi dập tắt cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, đã tịch thu các trống đồng của các thủ lĩnh địa phương, một phần đem tặng, phần nấu chảy để đúc ngựa và đúc cột đồng Mã Viện."
Sử xưa cũng ghi lại rằng: " Sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị người Hán xâm chiếm, văn hóa của Việt tộc bị chính sách đồng hoá. Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp đã bắt đốt hết sách Việt tộc, nhà nào cất giữ, lưu truyền thì bị giết hại. Các trống đồng Việt tộc bị Mã Viện tịch thu (năm 43), tiếp theo sau là cuộc cướp phá, tiêu hủy sách vở Việt tộc của nhà Minh đầu thế kỷ 15…"
Với chính sách tận diệt văn hóa Việt như trên, chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ và có thể cả chữ “tượng hình” sơ khai của thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một ngàn năm bị đô hộ, đã bị xoá sạch, vì thế không thể phổ biến được cũng là điều dễ hiểu.
Hịch
khởi nghĩa của
Hai Bà Trưng, viết
bằng chữ Khoa
Đẩu.
Chữ
Việt cổ trên
thân Trống Đồng
Lũng Cú.
Tuy
nhiên, với chí
khí bất khuất
của người
Việt, luôn
khát vọng độc
lập tự do, ông
cha ta từ chữ
Hán tượng hình
đã chế tác ra
thứ chữ Nôm để
sử dụng, nhằm
mục đích giữ
gìn nền văn
hoá Việt Nam
cận đại và bản
sắc văn hóa
thuần túy dân
tộc Việt.
Nhìn
chung Việt Nam
vào thời điểm
lịch sử cổ,
trung đại, vẫn
chưa chính thức
có trường lớp
nào dạy nói và
viết tiếng Việt.
Người Việt chúng
ta ngày xưa đa
số được học
(nói) tiếng Việt
ngay từ lúc lọt
lòng mẹ, trong
sinh hoạt gia
đình và thông
qua những giao
tiếp hàng ngày
ngoài xã hội là
chính. Ở giai
đoạn này chữ
viết vì chưa
truyền bá phổ
thông trong dân
chúng nên các
câu Ca Dao, Tục
Ngữ,Thơ ngắn,
dài (1)
nhờ có
vần, có điệu,
nên mau thuộc và
dễ nhớ; là loại
văn chương ca
dao truyền khẩu
được phổ biến
rộng rãi trong
nhân gian và
ngày càng phong
phú, súc tích.
Trong
quá trình xã hội
phát triển, dân
tộc Việt Nam ta
đã tiếp xúc giao
lưu với nhiều
dân tộc khác.
Trong tiếp xúc
trao đổi thông
tin với nhau,
vấn đề học hỏi
và hiểu rõ ngôn
ngữ của nhau trở
nên nhu cầu cần
thiết.
Vào
thế kỷ XV. Sứ
thần Trung Quốc
đã phải nhờ đến
các cơ quan
phiên dịch ở
Trung Quốc như
Hội thông quán,
Tứ Di quán, Tứ
Dịch quán làm
nhiệm vụ phiên
dịch mỗi khi
giao tiếp với
Việt Nam. Các
cuốn từ vựng đối
chiếu tiếng Hán
với một số thứ
tiếng khác được
lần lượt biên
soạn, trong đó
có cuốn An Nam
Dịch Ngữ (*) là
cuốn từ điển
dùng để đối
chiếu tiếng chữ
Hán với chữ
tiếng Việt.
(*) An Nam Dịch Ngữ là bản từ vựng dùng cho cơ
quan hành chánh
(nhà Minh) đặc
trách giao dịch
với Việt Nam
từng phải triều
cống.
Giai
đoạn năm 939,
thời Vua Ngô
Quyền lập quốc,
các triều đại
Vua Việt Nam đã
mượn chữ Hán
(chữ Nho) để sử
dụng trong hành
chánh, học
thuật. Tuy
nhiên, người
Việt vẫn nói
tiếng Việt,
không công nhận
chữ Hán (chữ
Nho) là quốc
ngữ. Tổ tiên ta luôn
tìm cách sáng
tạo ra quốc ngữ
riêng và đã
dựa trên chữ Hán
để chế ra chữ
Nôm. Chữ Nôm
được ghi nhận
chính thức xuất
hiện vào thế kỷ
13, khi quan
Hình Bộ Thượng
Thư: Nguyễn
Thuyên, triều
Trần Nhân Tông
(1279-1293), làm
bài văn “Tế cá
sấu” (2) bằng
chữ Nôm. Vào
thời nầy, chữ
Nôm được xem là
Quốc ngữ bên
cạnh chữ Nho,
nên tập thơ chữ
Nôm của Chu Văn
An (1292–1370)
được ông gọi
là Tiều ẩn quốc
ngữ thi tập (Tập
thơ quốc
ngữ). Đoạn
Trường Tân Thanh
(Kim
Vân Kiều) của
thi hào Nguyễn
Du, là một trong
những tiêu biểu
hàng đầu những
thành tựu đáng
kể của
chữ Nôm đã đóng
góp cho nền văn
hoá Việt Nam cận
đại.
Tuy
nhiên, chữ Nôm
vì được cấu tạo
trên căn bản chữ
Nho, nên khi
muốn học chữ Nôm
thì phải biết
chữ Nho (chữ
Hán).Vì vậy chữ
Nôm khó học,
không phổ thông
trong dân chúng,
và ít được sử
dụng rộng rãi.
(Sách
cổ viết chữ Nôm)
Đến giai đoạn thế kỷ 16, năm 1533. Khi các nhà truyền giáo phương Tây đến Việt nam để truyền dạy ĐạoThiên Chúa, các giáo sĩ đã nghiên cứu, và soạn ra bộ chữ từ chữ La tinh để viết và cách phiên âm tiếng Việt, dùng cho việc giảng đạo bằng ngôn ngữ Việt . Từ bộ chữ này đã trở thành Chữ Quốc Ngữ. Đây cũng là giai đoạn khởi đầu quan trọng nhất, có tính chất quyết định đã giúp cho ngôn ngữ Việt, và nền Văn Hóa Việt Nam được phát triển nhanh chóng.
Các giáo sĩ, tu sĩ Jesuit (Dòng Tên) http://en.wikipedia.org/wiki/Jesuit Người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. Sử dụng chữ cái La tinh để ghi chép, phiên âm Tiếng Việt.
Năm 1618, linh mục Francisco De Pina cùng với linh mục Phêrô, đã dịch Kinh Lạy Cha và các Kinh căn bản khác sang tiếng Việt, có thể xem đây là khởi đầu cho việc soạn thảo chữ Quốc ngữ. Các Linh mục tương đối hoàn tất hệ thống chuyển mẫu tự La-tinh thích hợp với cách giọng phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Nhưng giai đoạn nầy chưa được đầy đủ.
Bản
Kinh lạy Cha
được viết tay
năm 1632 nguyên
bản như sau:
Người có công hoàn thiện công trình này là Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La , Ngữ pháp tiếng An Nam, và “Bài giảng giáo lý Tám ngày” đầu tiên xuất bản vào năm 1651.
Từ
điển Việt-Bồ-La
Hình
bìa “Sách Phép
Giảng Giáo Lý
Tám Ngày”
Link sách DOWN
LOAD (Phép
Giảng Giáo Lý
Tám Ngày)
(Tài liệu lưu trữ 88.3 MB dạng (pdf)
https://www.dropbox.com/s/3eg88d2zf720bf2/PHEP%20GIANG%208%20NGAY%20%28TVST%29%20%20-%20%20Cathechismvs%20%20%20Alexandre%20de%20Rhodes.pdf
(Tài liệu lưu trữ 88.3 MB dạng (pdf)
https://www.dropbox.com/s/3eg88d2zf720bf2/PHEP%20GIANG%208%20NGAY%20%28TVST%29%20%20-%20%20Cathechismvs%20%20%20Alexandre%20de%20Rhodes.pdf
Ðây là sách giáo lý được biên soạn để giúp cho các cha truyền dậy giáo lý tại Việt nam. Cuốn sách được in bằng hai thứ tiếng: La tinh và Việt Nam.
Trên mỗi trang sách chia làm hai, có một gạch đôi từ trên xuống dưới: Bên tay trái của người đọc sách là chữ La tinh, bên tay phải là chữ Việt.
Ðể người đọc dễ dàng đối chiếu song ngữ. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes - Ðắc Lộ, đặt ở đầu mỗi ý tưởng chính mẫu tự abc... cho hai phần La, Việt, rồi chính giữa trang sách cũng đặt mẫu tự abc... cho hai phần La Việt song song. Cuốn sách gồm có 319 trang.
Sách không chia ra từng chương, mà lại chia theo từng ngày học (Tám ngày), được trình bày in ấn có tính cách như một giáo trình sư phạm.
Giáo
sĩ Alexandre de
Rhodes
Giáo sĩ Alexandre De Rhodes (Sinh năm1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư). Ngài đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 -1630).
Ngài là người có công rất lớn trong việc hệ thống hoá chữ viết tiếng Việt. Nhờ đó mà chữ Quốc Ngữ được hình thành và trở thành hệ thống có quy tắc và khoa học, dễ viết, dễ phát âm, dễ học.
Nhìn chung, sự hình thành Quốc ngữ không phải do công sức cá nhân của một giáo sĩ, mà là công sức tập thể của nhiều giáo sĩ thuộc nhiều nước khác nhau, nhiều thế hệ khác nhau, đã đến truyền đạo tại Việt Nam. Và trong đó còn có sự đóng góp trực tiếp nhưng âm thầm của rất nhiều giáo sĩ Việt Nam và đồng bào giáo dân lúc bấy giờ.
Chữ Quốc ngữ tuy ra đời từ thế kỉ 17 (1651) ở Việt Nam nhờ công lao tâm trí của các Tu sĩ truyền giáo, nhưng bị giới hạn chỉ dùng để giúp các Cha giảng, truyền đạo. Vì lúc ấy triều đình phong kiến Việt Nam, đàng Trong lẫn đàng Ngoài với chính sách cấm đạo, và giết hại Giáo sĩ nên chữ Quốc ngữ đã không thể phát triển, truyền bá rộng rãi.
NGHE & Down load (AUDIO BOOK THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM)
(Trích đoạn trong sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ -
Nghiên cứu của
linh mục Ðỗ
Quang Chính,
do nhà sách Ra
Khơi xuất bản
tại Sài gòn
năm 1972).
Giai
Ðoạn Sơ Khởi
(1620-1626):
Các
nhà truyền
giáo Âu Châu
đã đến Hà Tiên
và Thừa Thiên
từ giữa thế kỷ
16. Nhưng mãi
sang đến đầu
thế kỷ 17
những hoạt
động truyền
giáo này mới
được ghi lại
khá đầy đủ.
Khởi đầu, các
nhà truyền
giáo đã đến
Hội An để giúp
đỡ các giáo
hữu người
Nhật. Hội An
(Hội Phố) thời
ấy là một cảng
buôn bán sầm
uất, với những
phố riêng cho
người Nhật và
người Hoa.
Theo
sách cũ, người
Âu Châu đầu
tiên thạo
tiếng Việt là
linh mục
Francisco de
Pina, người Bồ
Ðào Nha
(Portugal) (3)
. Năm 1620,
với sự công
tác của người
bản xứ, các tu
sĩ Dòng Tên
(Jésuite) tại
Hội An đã soạn
thảo một sách
giáo lý bằng
chữ Nôm. Từ
năm 1621 trở
đi, các nhà
truyền giáo đã
bắt đầu chuyển
qua mẫu tự abc
những địa
danh, tên tộc,
và từ-ngữ Việt
trong những
bản tường
trình cho giáo
hội về hoạt
động của họ.
Dựa
vào những
tài-liệu viết
tay còn được
lưu trữ, trong
giai-đoạn sơ
khai của chữ
Quốc Ngữ, các
chữ thường
được viết liền
và không có
đánh dấu. Thí
dụ:
-
Annam = An
Nam
-
Unsai = Ông
Sãi
-
Ungue = Ông
Nghè
-
Bafu = Bà Phủ
-
doij = đói
-
scin mocaij =
xin một cái
-
Sayc Chiu =
Sách chữ
-
Tuijciam, Biet
= Tôi chẳng
biết
Giai
Ðoạn Hai
(1631-1648)
Những
tài-liệu viết
tay trong
giai-đoạn này,
đặc biệt là
của linh mục
d’Amaral, cho
thấy chiều
hướng mới
trong cách
viết chữ Quốc
Ngữ. Các chữ
được viết cách
ra và đã được
bỏ dấu. Nhiều
chữ được viết
như ta hằng
thấy ngày nay.
Thí dụ như:
· Nghệ An
· Bố Chính
Nhiều
chữ nhìn tương
tự nhưng có
lối đánh vần
và bỏ dấu hơi
khác
· Thính hoa: Thanh Hóa
· oũ bà phủ: Ông bà Phủ
· hụyen: huyện
· sãy: sãi
Ngoài
những bản
tường trình,
giai đoạn này
còn có ba
tài-liệu
quan-trọng
khác. Một là
biên-bản
hội-nghị năm
1645 của 35
linh mục Dòng
Tên tại Macao
để xác nhận mô
thức rửa tội
bằng tiếng
Việt Nam (4) .
Hai là cuốn
tự-điển
Việt-Bồ-La của
linh mục
Gaspar
d’Amaral
(Diccionário
anamita-português-latim).
Ba là cuốn
tự-điển
Bồ-Việt
(Diccionário
português-anamita)
của linh mục
Antonio
Barbosa (5) .
Ðến
năm 1972, biên
bản cuộc hội
nghị được lưu
trữ tại Văn
Khố Dòng Tên
tại La Mã (6)
. Còn hai cuốn
tự-điển kia,
lúc đầu được
tàng trữ tại
Văn Khố Dòng
Tên tỉnh Nhật
Bản tại Macao,
đã mất tích
sau các cuộc
di chuyển của
văn khố này từ
Macao qua
Manila (Phi
Luật Tân), từ
Manila qua
Madrid (Tây
Ban Nha). Sở
dĩ chúng ta
còn biết đến
hai cuốn
tự-điển này là
vì chính Ðắc
Lộ, trong lời
tựa của cuốn
tự-điển mà ông
xuất-bản năm
1651, đã viết
rõ là ông đã
dùng hai cuốn
tự-điển trên
để soạn-thảo
cuốn tự-điển
của mình.
Giai
Ðoạn Ba
(1649-1651):
Giai
đoạn này được
đánh dấu bằng
sự thống nhất
cách viết chữ
Quốc Ngữ và
việc ấn hành
hai cuốn sách
quốc ngữ đầu
tiên của Ðắc
Lộ (7) . Hai
cuốn ấy là:
· Dictionarivm annamiticvm,
lvsitanvm, et
latinvm, ope
Sacrae
Congregationis
de Propaganda
Fide in lvcem
editvm. Ab
Alexandro de
Rhodes è
Societate
Iesv,
ejusdemque
Sacrae
Congregationis
Missionario
Apostolico,
Roma, 1651,
in-4°
· Cathechismvs pro iis, qui volunt
suscipere
Baptismvm, in
Octo dies
diuisus. Phép
giảng tám ngày
cho kẻ muấn
chiụ phép rứa
tọi, ma /beào
(8) đạo thánh
đức Chúa blời.
Ope Sacrae
Congregationis
de Propaganda
Fide in lucem
editus. Ab
Alexandro de
Rhodes è
Societate
Iesv,
ejusdemque
Sacrae
Congregationis
Missionario
Apostolico,
Roma, 1651,
in-4° . (Hết phần trích dẫn)
Toàn
Quyền Đông
Dương Martial
Merlin (Bên
phải hình)
No comments:
Post a Comment